Xa kê
Xa kê |
|
|
|
Giới (regnum) |
|
(không phân hạng) |
|
(không phân hạng) |
|
Bộ (ordo) |
|
Họ (familia) |
|
Tông (tribus) |
|
Chi (genus) |
|
Loài (species) |
A. altilis |
Xa kê hay sa kê hoặc cây bánh mì (danh pháp hai phần: Artocarpus altilis) là một loài cây gỗ có hoa trong họ Dâu tằm(Moraceae), bản địa của bán đảo Mã Lai và các đảo miền tây Thái Bình Dương, nhưng hiện nay đã được trồng rộng khắp trong khu vực nhiệt đới, trong đó có miền Nam Việt Nam.
Mục lục
[ẩn]
Miêu tả
Cây bánh mì trồng tại Honolulu, Hawaii
Xa kê là cây gỗ có thể cao tới 20 m (66 ft). Các lá to và dày bản xẻ thùy sâu hình lông chim. Tất cả các phần của cây đều có chứa nhựa mủ, một loại nhựa cây có màu trắng sữa, được người ta dùng vào việc xảm thuyền.
Xa kê là loài cây đơn tính cùng gốc, với các hoa đực và hoa cái mọc trên cùng một cây. Các hoa đực ra đầu tiên và sau đó một khoảng thời gian ngắn là các hoa cái, mọc thành cụm hoa dạng đầu, chỉ có khả năng được thụ phấn sau đó 3 ngày. Động vật thụ phấn cho nó là các loài dơi ăn quả thuộc Cựu thế giới trong họPteropodidae). Quả giả, phức hợp phát triển lên từ bao hoa phình ra và bắt nguồn từ 1.500-2.000 hoa. Chúng được nhìn thấy trên lớp vỏ quả như là các đĩa giống hình lục giác.
Xa kê là một trong những loài cây lương thực có sản lượng cao, với một cây có thể ra tới trên 200 quả mỗi mùa. Tại miền nam Thái Bình Dương, cây sinh ra 50-150 quả mỗi năm. Tại miền nam Ấn Độ, sản lượng thông thường là 150-200 quả mỗi năm. SẢn lượng dao động trong các khu vực khô và ẩm. Tại Tây Ấn, ước tính dè dặt nhất là 25 quả một cây mỗi năm. Các nghiên cứu tại Barbadoschỉ ra năng suất tiềm năng 16-32 tấn/ha (6,7-13,4 tấn/mẫu Anh). Quả hình trứng, kích cỡ to bằng quả bưởi chùm có bề mặt thô ráp và mỗi quả trên thực chất là tổ hợp của nhiều quả bế, mỗi quả bế được bao quanh bằng bao hoa dày cùi thịt và phát triển trên đế hoa dày cùi thịt. Một vài giống cây trồng đã qua chọn lọc có quả không hạt.
Xa kê có họ hàng gần với mít. Nó được gọi là "Kada Chakka" trong tiếng Malayalam và "Jeegujje"/"Geegujje"/"Jigujje" trong tiếng Tulu
Xa kê, phần ăn được |
|
Giá trị dinh dưỡng 100 g (3,5 oz) |
|
431 kJ (103 kcal) |
|
27.12 g |
|
Đường |
11 |
4.9 g |
|
0.23 g |
|
1.07 g |
|
70.65 g |
|
- lutein và zeaxanthin |
22 μg |
Thiamin (Vit. B1) |
0.11 mg (8%) |
Riboflavin (Vit. B2) |
0.03 mg (2%) |
Niacin (Vit. B3) |
0.9 mg (6%) |
Axit pantothenic (Vit. B5) |
0.457 mg (9%) |
0.1 mg (8%) |
|
Axit folic (Vit. B9) |
14 μg (4%) |
29 mg (48%) |
|
0.1 mg (1%) |
|
0.5 μg (0%) |
|
17 mg (2%) |
|
0.54 mg (4%) |
|
25 mg (7%) |
|
0.06 mg (3%) |
|
30 mg (4%) |
|
490 mg (10%) |
|
2 mg (0%) |
|
0.12 mg (1%) |
|
Link to USDA Database entry |
Sử dụng
Xa kê là cây lương thực ổn định tại nhiều khu vực nhiệt đới. Nó được phổ biến ra xa khỏi quê hương bản địa của mình nhờ các thủy thủ Polynesia, những người đã chuyên chở các gốc ghép, cành giâm đi xa trên đại dương. Xa kê chứa nhiềutinh bột, và trước khi ăn nó có thể được quay, nướng, chiên, luộc. Khi được chế biến, nó có mùi vị giống như khoai tâyhay tương tự như bánh mì mới nướng, vì thế mà có tên gọi cây bánh mì.
Quả xa kê - nguyên vẹn, bổ dọc và bổ ngang
Do xa kê thường sinh ra một sản lượng lớn trong một khoảng thời gian nhất định trong năm nên việc bảo quản là một vấn đề. Một kỹ thuật bảo quản truyền thống là chôn các quả đã bóc vỏ và rửa sạch trong hố lót bằng lá để lên men trong vài tuần tạo ra một loại bột nhão dính và chua. Đượu lưu trữ như thế, sản phẩm có thể giữ troing một năm hay hơn thế, và một vài hố được thông báo là sinh ra sản phẩm ăn được sau trên 20 năm[2]. Các tên gọi cho sản phẩm quả xa kê được lên men như vậy bao gồm mahr, ma, masi, furo, bwiru v.v.
Hình vẽ cây/quả xa kê của Sydney Parkinson
Quả xa kê có thể ăn sau khi nấu chín hoặc có thể chế biến tiếp thành các loại thức ăn khác. Một sản phẩm thông thường là hỗn hợp của khối nghiền nhừ thịt quả xa kê nấu chín hay lên men trộn với sữa dừavà nướng trong lá chuối. Quả còn nguyên có thể nướng, sau đó lấy lõi ra và nhồi bằng các thức ăn khác như sữa dừa, đường, bơ, thịt nấu chín hay các loại quả khác. Quả nhồi này có thể nấu tiếp để cho hương vị của các chất nhồi thấm vào cùi thịt của quả.
Một món ăn của người Hawaii gọi là poi làm từ củ khoai sọ nghiền nhừ có thể dễ dàng thay thế hay tăng thêm bằng xa kê nghiền nhừ. Món ăn này gọi là poi ʻulu. Tại Puerto Rico nó được gọi là "pana".
Quả xa kê chứa khoảng 25% cacbohydrat và 70% nước. Nó chứa trung bình khoảng 20 mg/100g là vitamin C và một lượng nhỏ khoáng chất (kali và kẽm) cùng thiamin (100 μg)[3].
Xa kê được sử dụng rộng rãi và đa dạng đối với những người dân trên các đảo trong Thái Bình Dương. Gỗ của nó có khả năng chống mối và các loài hà (họ Teredinidae) nên hay được sử dụng để làm các loại canoe[4]. Lõi gỗ của nó cũng được dùng làm giấy, gọi là breadfruit tapa[4]. Nó cũng được sử dụng trong y học dân gian trên các đảo để chữa bệnh, từ đau mắt tới đau thần kinh hông[4].
Trong Y học
Lá Xa kê có tác dụng kháng viêm, kháng sinh, lợi tiểu, trị tiêu chảy, tiểu đường[5], cao huyết áp, sỏi thận, bệnh gút và viêm gan vàng da. Thí nghiệm trên chuột tại Ấn Độ cho thấy cao khô (chiết bằng cồn 50 độ) của vỏ, lá Xa kê có tác dụng lợi tiểu ở liều 20 mg cao/kg khối lượng cơ thể, nhưng sẽ trở thành chất độc ở liều 80 mg/kg cơ thể. Liều lượng mỗi ngày dùng một lá dạng sắc uống, nhưng do lá có độc nên sau khi uống một tuần thì phải nghỉ một tuần, không được dùng liên tục như uống trà. Có thể dùng lá tươi hoặc là già, lá phơi khô đều được.[6]
Trong lịch sử
Xa kê được thu thập và phân phối bởi đại úy hải quân William Bligh (1754-1817) như là một trong các mẫu thực vật được thu thập bởi tàu HMS Bounty vào cuối thế kỷ 18, phục vụ cho nhu cầu tìm kiếm nguồn thức ăn giàu năng lượng và rẻ tiền cho các nô lệ củađế quốc Anh trong khu vực Caribe.
Trong văn hóa
Tượng Kū ở bảo tàng PEM
Theo thần thoại Hawaii, xa kê có nguồn gốc từ sự hy sinh của thần chiến tranh Kū. Sau khi quyết định sống ẩn mình với những người dân thường như là một nông dân, Kū cưới vợ và có con. Gia đình ông sống hạnh phúc cho tới khi nạn đói kém xuất hiện trên đảo của họ. Khi không thể nhìn mãi cảnh các con mình phải chịu đau khổ, Kū nói với vợ của mình rằng ông có thể giải thoát các con khỏi cảnh đói nghèo, nhưng để làm được điều này thì ông phải rời xa họ. Vợ ông đành phải miễn cưỡng đồng ý và sau khi bà đồng ý thì Kū bị chìm vào trong lòng đất nơi ông đang đứng cho tới khi chỉ còn nhìn thấy chỏm đầu của ông. Gia đình ông chờ đợi xung quanh nơi ông đã đứng này cả ngày lẫn đêm, họ khóc và làm ướt đẫm nơi này cho tới khi bỗng nhiên một chồi cây nhỏ xuất hiện tại chính nơi Kū đã đứng. Rất nhanh chóng, chồi cây nhỏ này lớn thành một cây cao, nhiều lá và quả. Gia đình Kū cùng hàng xóm ăn một cách ngon lành, giúp họ thoát khỏi cảnh chết đói[7].
Mặc dù xa kê phân bổ rộng khắp trong suốt Thái Bình Dương, nhưng nhiều loại giống cây trồng và cây lai ghép lại không hạt hay không có khả năng phát tán xa một cách tự nhiên. Vì thế, sự phân bổ của nó trong khu vực này rõ ràng là do con người, đặc biệt là các nhóm tiền sử, những người đã định cư trên các đảo trong Thái Bình Dương. Để điều tra mô hình di cư của con người trong Thái Bình Dương, các nhà khoa học đã sử dụng phương pháp xác định niên đại phân tử của các loại giống cây trồng hay lai ghép của xa kê có tính toán phối hợp với các dữ liệu nhân loại học. Các kết quả hỗ trợ giả thuyết di cư tây-sang-đông, trong đó ngườiLapita được cho là đã di chuyển từ Melanesia tới các đảo của Polynesia[8].
TRÁI SAKE : 1 THỰC PHẨM DINH DƯỠNG VÀ THÚ VỊ
BẠN NÊN THƯỞNG THỨC MỖI NGÀY
Sake tên khoa học là Artocarpus altilis, thuộc họ dâu tằm (Moraceae) là loại cây được trồng nhiều ở miền Tây Nam bộ nước ta. Các bộ phận như trái, rễ, lá, vỏ và nhựa của cây Sake có nhiều dược tính nên được sử dụng làm thuốc trị bệnh.
Theo Đông y, cây Sake có tác dụng tốt đối với một số bệnh về chuyển hóa. Dưới đây xin giới thiệu những phương thuốc trị bệnh từ cây Sake.
Chữa viêm gan vàng da: Lá Sake tươi 100g, diệp hạ châu tươi 50g, củ móp gai tươi 50g, cỏ mực khô 20 – 50g. Nấu chung, lấy nước uống trong ngày.
Trị đau răng: Lấy rễ cây Sake, nấu nước ngậm và súc miệng.
Trị bệnh gút, sỏi thận: Dùng lá Sake già (còn tươi) 100g, dưa leo 100g, cỏ xước khô 50g, cho 3 thứ vào nồi nấu lấy nước uống trong ngày.
Trị chứng tăng huyết áp dao động: Dùng lá Sake vàng (vừa rụng) 2 lá, rau ngót tươi 50g, lá chè xanh tươi 20g, nấu chung lấy nước uống trong ngày.
Trị tiểu đường tuýp 2: Lấy lá Sake già 100g (khoảng 2 lá), quả đậu bắp tươi 100g, lá ổi non 50g, cho vào nồi nấu lấy nước uống hằng ngày.
Lưu ý, chỉ nên dùng lá Sake sắc uống trong trường hợp phù thũng, bí tiểu hoặc viêm nhiễm, còn bình thường không nên uống thường xuyên, nhất là uống quá nhiều sẽ không có lợi, bởi vì ngoài tác dụng lợi tiểu, tiêu viêm, lá Sake còn chứa một số độc tính nhất định.
Cách bảo quản trái Sake
Trái Sake mua về khi chưa sử dụng bạn nên bảo quản cẩn thận bằng cách bọc giấy báo hay túi nylong và để trong ngăn mát tủ lạnh. Bằng cách này bạn sẽ bảo quản được khoảng 1 tuần.
Lưu ý trái Sake dễ bị hỏng nếu Bạn để ngoài trong thời tiết nóng bức.
Cách sơ chế trái Sake
Sake vỏ mỏng nên chỉ cần lấy nạo bào vỏ đi sau đó bổ ra cắt bỏ lõi.
Ngâm Sake vào nước muối loãng cho ra nhựa và không bị thâm.
Cắt miếng theo nhu cầu và chế biến món ăn.
1 . CHÈ SAKE LÁ DỨA
Sake ngọt bùi kết hợp với vị thơm của lá dứa sẽ cho ra món chè Sake lá dứa không đụng hàng
Nguyên liệu
1/2 quả Sake
4 cọng lá dứa tươi
50g bột năng, 200ml nước cốt dừa
300g đường cát, 1/2 thìa cà phê muối
Chế biến món chè Sake lá dứa
Sake gọt sạch vỏ, rửa sạch, xắt khối vừa ăn, bỏ lõi. Lá dứa xay nhuyễn, vắt lấy nước cốt
Đun sôi 500ml nước sạch, cho Sake vào nấu chín, cho đường vào nấu thêm khoảng 10 phút cho Sake thấm đường. Chế bột năng hòa nước cốt lá dứa vào, nấu sôi lại, tắt bếp
Đun sôi nước cốt dừa, cho muối và chế bột năng hòa với ít nước lạnh vào khuấy đến khi thấy có độ sánh vừa đủ, tắt bếp
Thưởng thức
Khi dùng múc chè ra chén, chan nước cốt dừa vào, dùng nóng hay lạnh đều được.
Mách bạn
khi gọt cũng thả vào thau nước muối để Sake trắng đẹp. Không cho đường vào sớm khi Sake chưa chín, vì sẽ bị chai, sượng.
2 . SƯỜN NON HẦM TRÁI SAKE
Trái Sake ngoài việc trở thành món ăn khoái khẩu của giới trẻ qua các món như: Sake luộc, Sake chiên, Sake hầm dừa… Gần đây, trái Sake được các bà nội trợ ưu tiên thành nguyên liệu chế biến thêm nhiều món mới, hấp dẫn hơn. Sau đây là món Sake hầm với sườn non. Món sườn non hầm Sake đã trở thành món ăn quen thuộc
Nguyên liệu:
300g sườn non
500g Sake
Hành lá, ngò, nước mắm, đường, muối, bột ngọt
Cách chế biến món Sườn non hầm Sake
Chuẩn bị:
Sườn non rửa sạch, để ráo, chặt thành miếng vừa ăn. Ướp sườn với nước mắm, đường, muối, bột ngọt khoảng 15′
Sake chọn trái vừa, gọt vỏ, cắt miếng lớn, ngâm trong nước muối có pha chanh cho bớt nhựa. Vớt ra, để ráo.
Hành, ngò cắt nhỏ
Thực hiện:
Đun nước sôi, thả sườn vào, đun sôi trở lại, hớt bọt, nêm nước mắm, muối, giảm lửa vừa cho nước không bị đục, nấu khoảng 10′
Cho Sake vào nấu tiếp cho đến khi Sake chín mềm là được. Nêm lại gia vị cho vừa ăn. Múc ra tô, rắc hành ngò.
Sake hầm sườn rất ngon, có vị béo khác với khoai tây, ăn lại mát.
3. Sa Kê bột chiên
- Cách chế biến rất đơn giản. Sa-kê gọt vỏ, chẻ làm tư, bỏ ruột. Thái sa-kê thành từng miếng vừa, ngâm vào nước muối pha loãng.
- Pha bột chiên giòn với nước cho vừa sánh, đập vào một quả trứng, đánh đều.
- Cho dầu ngập chảo, đun sôi. Nhúng sa-kê vào hỗn hợp bột, cho vào chảo dầu nóng chiên vàng, vớt ra, để ráo dầu.
4. Bánh Sa Kê chiên mè
Món Sa Kê chiên mà thơm ngon, ăn giòn thực sự thích hợp cho tiết trời mùa thu se lạnh, vừa xem phim vừa nhâm nhi món bánh Sa Kê chiên mà thì còn gì hấp dẫn hơn.
Cách chế biến cũng thật đơn giản:
- Sa-kê gọt vỏ thái miếng vừa ăn. Bột chiên giòn hòa tan với chút nước cho sền sệt, cho mè vào trộn đều.
- Nhúng miếng sa-kê vào bột rồi thả vào chảo dầu nóng, chiên vàng.
- Vớt ra để ráo dầu. Dọn ra đĩa, dùng kèm với sốt mayonnaise sẽ ngon hơn.
Món ngon mùa Sa Kê
5. Món chè Sa Kê
Sa kê được nấu cùng với khoai lang, đậu đỏ, đậu phộng rang, nước cốt dừa,... thơm ngon, thanh mát.
Gọt vỏ sa kê, khoai lang, cắt miếng hình quân cờ.
- Ngâm nở nấm mèo, thái sợi.
- Ngâm bột báng, bột khoai.
- Cho nước dừa dão, lá dứa, khoai lang, sa kê, đậu phộng vào nồi đun gần chín, cho táo đỏ, bột báng, bột khoai, nấm mèo vào.
- Cho nước cốt dừa, đường vừa ăn, nấu 5 phút, nhấc xuống.
6 . Sa Kê nấu kiểm
- Món Sa Kê nấu kiểm vô cùng hấp dẫn nhưng hơi mất công 1 chút. Muốn có nồi kiểm ngon phải có dừa nạo lấy nước và lấy cùi dừa cắt thành sợi như con bánh canh. Dừa khô nạo lấy nước cốt và nước dão. Ngoài sa kê còn có thêm khoai lang, bí rợ, đậu đũa, mướp khía, nấm mèo, bột khoai, bột báng, táo đỏ, đậu phộng, hạt sen, tàu hũ ky…
- Uớp muối, đường vào sa kê, khoai lang và bí rợ vào nồi cho ngấm. Cho nước dừa, nước cốt dão ngập xâm xấp vào sa kê, khoai lang, bí rợ nấu chín để sẵn ra nồi thứ nhất. Kế đến, cho đậu đũa, đậu phộng, hạt sen… đã sơ chế vào nồi thứ hai nấu chín. Đổ hai thứ cho vào chung một nồi rồi đổ cùi dừa nạo, tàu hũ ky, bột khoai, bột báng, táo đỏ… vào sau chót.
- Cuối cùng, cho nước cốt đậm đặc vào. Nêm nếm lần cuối cho vừa khẩu vị, nhắc xuống. Múc ra tô dùng, thêm vào nhúm đậu phộng rang giã giập là xong.
7. Salad Sa Kê kiểu Ý
- Sa kê gọt vỏ, xắt sợi, ngâm nước muối loãng có pha chút chanh, sau đó luộc chín.
- Jambon xắt chỉ. Xà lách rửa sạch, cắt đôi hoặc ba
- Ớt chuông, hành tây rửa sạch. Dưa leo lạng lấy thịt, bỏ ruột. Tất cả xắt sợi. Trái ô-liu cắt từng khoanh mỏng
- Trộn đều tất cả các nguyên liệu với giấm trộn pha sẵn, dọn ra dùng lạnh.
8. Canh Sa Kê nấu tôm
Ngoài ra Sa Kê dùng để nấu canh cũng rất ngon, mát, làm cho bữa cơm gia đình thêm hấp dẫn.
- Sakê gọt bỏ vỏ, cắt làm bốn rồi bỏ lõi. Cắt miếng vừa ăn
- Hành lá nhặt rửa sạch, xắt xéo
- Ngâm sakê trong nước muối cho trắng Tôm bóc nõn vỏ, đập giập
- Đun sôi nước dùng. Nêm gia vị vừa ăn rồi cho tôm vào nấu sôi
- Cho tiếp sakê vào nấu khoảng 10 phút cho chín, trút ra tô. Rắc hành lá và tiêu lên.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét