Chùm ruột
Chùm ruột |
|
Giới (regnum) |
|
(không phân hạng) |
|
(không phân hạng) |
|
(không phân hạng) |
|
Bộ (ordo) |
|
Họ (familia) |
|
Tông (tribus) |
|
Phân tông (subtribus) |
|
Chi (genus) |
|
Loài (species) |
P. acidus |
Phyllanthus distichus Müll.Arg. |
Chùm ruột, còn gọi là tầm ruột (danh pháp hai phần: Phyllanthus acidus, danh pháp đồng nghĩa: Phyllanthus distichus,Cicca disticha, Cicca acida hay Averrhoa acida), là loài cây duy nhất có quả ăn được trong họ Phyllanthaceae. Cây chùm ruột vừa được trồng làm cây kiểng vừa lấy quả.
Chùm ruột phân bố chủ yếu ở miền nhiệt đới Á Châu từ Madagascar đến Ấn Độ sang tận Đông Nam Á. Ở Việt Nam, chùm ruột trồng phổ biến ở miền Nam.
Mục lục
[ẩn]
Miêu tả
Thân, lá và trái chùm ruột.
Nhánh lá chùm ruột
Chùm ruột là loại cây thân mộc, cỡ nhỏ, gần giống cây bụi, đạt chiều cao từ 2 m đến 9 m. Tán cây rậm rạp, thân cây có nhiều cành chính cứng và dày. Nhánh cây sần sùi vì vết sẹo của những cuống lá cũ. Ở cuối mỗi cành chính có nhiều cành nhỏ màu xanh, dài từ 15 cm đến 30 cm, mọc thành chùm dày đặc.
Lá chùm ruột mọc so le, hình trứng dài với kích thước khoảng 4–5 cm, rộng khoảng 1,5–2 cm.
Mùa hoa tháng 3-5, mùa quả tháng 6-8.
Hoa chùm ruột sắc hồng, nở từng chùm. Trái hình tròn, chia thành 6 múi, sắc xanh với đường kính khoảng 2-2,5 cm. Mỗi quả chỉ có 1 hột. Vị chùm ruột giòn và rất chua, do đó thường được tiêu thụ dưới dạng mứt tại Việt Nam. Khi nấu ở nhiệt độ cao trái chùm ruột sẽ chuyển sang màu đỏ.
Lá chùm ruột có khi được nấu lên ăn như một loại rau.
Những người mắc bệnh gout và sỏi thận không nên ăn chùm ruột, vì trái chứa nhiều a xít oxalic.[1].
Giá trị dinh dưỡng
Trong quả có nước, chất proitid, lipid glucid, acid acetic và vitamin C. Vỏ rễ chứa tanin 18% saponin acid gallic và một chất kết tinh.
Tuy có nhiều tác dụng, nhưng rễ và vỏ rễ cây này rất độc. Nhẹ thì nhức đầu, đau bụng, nặng có thể tử vong.
Cây Chùm ruột (Tầm ruột)
Ðơn thuốc: Trị phong ngứa, nổi mụn như ghẻ phỏng, chảy nước tới đâu ăn tới đó, hoặc lở cùng mình, ngứa dữ dội, dùng vỏ Tầm tuột, lá Me chua, đọt ổi, đọt Chuối Sứ cùi (cây non). Các vị bằng nhau đem nấu một lần, để vào một cục phèn chua bằng ngón tay cái, nấu nước sôi vài đạo nhắc xuống để nguội, hoặc tắm hoặc thoa vào chỗ bị ngứa để vậy cho khô, làm nhiều lần đến khi hết ngứa mới thôi. (Kinh nghiệm của An Giang).- Mẹo chữa tắc tia sữa ở bà mẹ sau sinh: Lấy lá Cây chùm ruột dã nhỏ, nếu bị tắc sữa vú bên phải thì đắp lá đã giã nhỏ vào tay bên trái và ngược lại. còn nếu tắc cả 2 vú + kèm theo nổi hạch thì đắp cả hai tay. Mẹo này nhiều người đã chữa và có rất hiệu nghiệm.
Miêu tả
Chùm ruột, còn gọi làtầm ruột(danh pháp hai phần:Phyllanthus acidus,danh pháp đồng nghĩa:Phyllanthus distichus,Cicca disticha,Cicca acidahayAverrhoa acida), là loài cây duy nhất có quả ăn được trong họPhyllanthaceae. Cây chùm ruột vừa được trồng làm cây kiểng vừa lấy quả.
Chùm ruột phân bố chủ yếu ở miềnnhiệt đớiÁ Châu từMadagascarđếnẤn Độsang tậnĐông Nam Á. Ở Việt Nam, chùm ruột trồng phổ biến ở miền Nam.
Chùm ruột là loại cây thân mộc, cỡ nhỏ, gần giốngcây bụi, đạt chiều cao từ 2 m đến 9 m. Tán cây rậm rạp, thân cây có nhiều cành chính cứng và dày. Nhánh cây sần sùi vì vết sẹo của những cuốnglácũ. Ở cuối mỗi cành chính có nhiều cành nhỏ màu xanh, dài từ 15cm đến 30cm, mọc thành chùm dày đặc.
Lá chùm ruột mọc so le, hình trứng dài với kích thước khoảng 4–5cm, rộng khoảng 1,5–2cm.
Mùa hoa tháng 3-5, mùa quả tháng 6-8.
Hoa chùm ruột sắc hồng, nở từng chùm. Trái hình tròn, chia thành 6 múi, sắc xanh vớiđường kínhkhoảng 2-2,5cm. Mỗi quả chỉ có 1hột. Vị chùm ruột giòn và rất chua, do đó thường được tiêu thụ dưới dạngmứt tạiViệt Nam. Khi nấu ở nhiệt độ cao trái chùm ruột sẽ chuyển sang màu đỏ.
Lá chùm ruột có khi được nấu lên ăn như một loại rau.
Những người mắc bệnh gout và sỏi thận không nên ăn chùm ruột, vì trái chứa nhiều a xít oxalic.[1].
Giá trị dinh dưỡng
-Trong quả cónước, chất proitid, lipid glucid, acid acetic và vitamin C. Vỏ rễ chứa tanin 18% saponin acid gallic và một chất kết tinh.Tuy có nhiều tác dụng, nhưng rễ và vỏ rễ cây này rất độc. Nhẹ thì nhức đầu, đau bụng, nặng có thể tử vong.
-Chùm ruột được sử dụng trong các món gỏi, làm nước uống, nước xốt hay làm mứt. Khi nấu ở nhiệt độ cao sẽ chuyển sang màu đỏ rất đẹp. Lá chùm ruột có vị chua nhẹ, được sử dụng để gói nem chua vì tính sát khuẩn mạnh. Có thể làm một loại nước uống lên men rất ngon: chuẩn bị 1 kg chùm ruột trái to không dập, 2 kg đường, 2 muỗng muối và 1 hũ thủy tinh sạch. Cho một lớp đường khoảng 1,5 cm dưới đáy hũ, cho chùm ruột vào và cứ tiếp tục xen kẽ hết lớp này đến lớp khác. Sau cùng thì rắc đều muối trên mặt, chèn kỹ và đóng nắp. Khoảng một tuần là có thể pha đá uống được.
Y học – Thuốc Nam
-Lá và rễ có tính nóng, rễ độc, có tác dụng làm tan ứ huyết, tiêu độc, tiêu đờm, sát trùng, đặc biệt chống độc đối với nọc rắn.
-Dân gian thường hay dùng vỏ chùm ruột để ngâm rượu. Phơi khô vỏ thân cây, tán thành bột mịn, cho rượu trắng nồng độ cao để ngâm trong 10 ngày là sử dụng được.
-Vỏ thân cây có khả năng tiêu hạch độc, ung nhọt, tiêu đờm, trừ tích ở phế. Rượu ngâm vỏ thân cây nhỏ vào tai chữa thối tai tiêu mủ, bôi chữa ghẻ, loét, vết thương chảy máu ngoài da, ngậm chữa đau răng, đau họng.
-Nhưng phải hết sức chú ý bởi phần vỏ cây và rễ chứa nhiều độc tố. nên tuyệt đối không được uống, hay tiếp xúc bằng đường miệng. Dân gian cho rằng lá chùm ruột, trái chùm ruột không thể thiếu kho ăn cá, tép nướng, nhưng tuyệt đối không ai bẻ nhánh chùm ruột làm gắp để nướng cả, vì nếu ăn phải chất nhựa trong da cây này nhẹ thì cũng choáng váng, nhức đầu, nặng hơn sẽ đau bụng dữ dội và nguy kịch đến tính mạng.
-Ngoài ra những người mắc bệnh gout và sỏi thận không nên ăn chùm ruột, vì trái chứa nhiều a xít oxalic.
-Bên cạnh đó, người ta cũng có thể dùng trái chùm ruột ngâm rượu để nhâm nhi trong bữa cơm vừa giúp tiêu hóa, lại ngon miệng.
- Mẹo chữa tắc tia sữa ở bà mẹ sau sinh: Lấy lá Cây chùm ruột dã nhỏ, nếu bị tắc sữa vú bên phải thì đắp lá đã giã nhỏ vào tay bên trái và ngược lại. còn nếu tắc cả 2 vú + kèm theo nổi hạch thì đắp cả hai tay. Mẹo này nhiều người đã chữa và có rất hiệu nghiệm.
Tham khảo thêm
Chùm ruột hay tầm ruột (Phyllanthus acidus) là giống cây duy nhất có trái có thể ăn được trong nhóm Phyllanthaceae. Có nguồn gốc từ vùng Madagascar và phổ biến khắp vùng Đông Nam Á, cây có thể cao đến 10 m, có tán rộng và hoa màu hồng rất đẹp, thường được trồng như một loại cây kiểng. Trái mọc từng chùm, có vỏ từ màu xanh non đến vàng nhạt và mờ đục như sáp. Hình dáng và hương vị của trái tùy thuộc vào giống. Theo Les plantes médicales thì chùm ruột có nhiều nước, vị rất chua do chứa nhiều a xít oxalic, chất nhầy, giàu pectin, glucid, khoáng chất và vitamin C (45%). Rễ cây tươi và lá chùm ruột có khả năng trị bệnh scorbut (một bệnh do thiếu hụt vitamin C). Lá nấu chín đắp lên mụn nhọt giúp hút mủ rất tốt. Người ta còn nhai lá chùm ruột để xoa dịu các chứng viêm họng và miệng. Thân cây chùm ruột được đưa vào các trị liệu dân gian do khả năng làm hạ sốt nhanh chóng. Có tác dụng giải độc, chùm ruột là một trong những loại thực vật được đưa vào chương trình giải độc cơ thể, trị các bệnh về da.
Thành phần hoá học: Trong quả có nước, chất proitid, lipid glucid acid acetic và vitamin C. Vỏ rễ chứa tanin 18% saponin acid gallic và một chất kết tinh.
Tính vị, tác dụng: Quả có tác dụng giải nhiệt và làm se. Rễ và hạt có tính tẩy. Lá và rễ dùng như chất chống độc đối với nọc rắn độc. Lá và rễ có tính nóng, làm tan huyết ứ, tiêu độc tiêu đờm và sát trùng.
Công dụng, chỉ định và phối hợp: Quả thường dùng ăn giải nhiệt, chữa tụ máu gây sưng tấy, đau ở hông, ở háng. Vỏ thân được dùng tiêu hạch độc ung nhọt, đơn độc, giang mai, bị thương sứt da chảy máu, ghẻ lở,Đau răng,đau mắt, đau tai có mủ, tiêu đờm, trừ tích ở phổi, đau yết hầu, song dao, độc dao.
Cách dùng: Quả thường dùng ăn tươi hoặc nấu canh ăn cho mát. Lá giã nhỏ với Hồ tiêu để đắp trị các chỗ đau. Vỏ phơi khô tán nhỏ ngâm rượu trắng (200g trong 1 lít) trong 10 ngày đem lọc lấy rượu, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 2 thìa canh. Rượu này nhỏ vào tai hôi thối làm hết mủ; thấm bông bôi ghẻ, loét, vết thương mau lành. Bột vỏ Chùm ruột ngâm giấm uống hết bệnhTrĩ. Còn có thể nấu cao uống mỗi lần 1/2 thìa cà phê với nước chín trị họng sưng, họng mọc nấm, lỗ mũi lồi thịt. Phối hợp với vỏ Vông đồng lượng gấp đôi, rồi hoà rượu trắng uống mỗi ngày 2 thìa cà phê, trị các bệnh về tim. Rễ và vỏ rễ có độc, chỉ nên dùng ngoài, không được uống.
Ðơn thuốc: Trị phong ngứa, nổi mụn như ghẻ phỏng, chảy nước tới đâu ăn tới đó, hoặc lở cùng mình, ngứa dữ dội, dùng vỏ Tầm tuột, lá Me chua, đọt ổi, đọt Chuối Sứ cùi (cây non). Các vị bằng nhau đem nấu một lần, để vào một cục phèn chua bằng ngón tay cái, nấu nước sôi vài đạo nhắc xuống để nguội, hoặc tắm hoặc thoa vào chỗ bị ngứa để vậy cho khô, làm nhiều lần đến khi hết ngứa mới thôi. (Kinh nghiệm của An Giang).
Nguồn:
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sưu tầm từ dân gian.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét